Mục tiêu của chiến dịch Chiến_dịch_Biên_giới

Trước tình hình chiến trường Đông Dương, ngoài việc tăng viện 20 tiểu đoàn lê dương Âu – Phi, quân Pháp còn thực hiện chiến lược Da vàng hóa chiến tranh, tổ chức thêm 35 tiểu đoàn quân đội bản xứ (Quân đội Quốc gia Việt Nam). Nước Mỹ bắt đầu nhảy vào cuộc với viện trợ quân sự cho Pháp và Quốc gia Việt Nam. Tháng 5/1949, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp là tướng Georges Marie Joseph Revers được phái sang Đông Dương nghiên cứu tình hình để vạch ra kế hoạch mới. Theo đó, người Pháp sẽ tăng viện tại Bắc Bộ để củng cố, mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở đồng bằng và trung du; giành lấy các nguồn cung ứng quan trọng; tăng cường phòng thủ tứ giác Lạng SơnTiên YênHải PhòngHà Nội và phong tỏa biên giới; phát triển quân đội người bản xứ và quân Âu-Phi làm lực lượng cơ động.

Theo kế hoạch của tướng Revers, quân đội Pháp ở Đông Dương thực hiện chủ trương xem Bắc Bộ là chiến trường chính; chiếm đóng đồng bằng, củng cố biên giới; đồng thời ra sức tǎng viện, tổ chức quân đội quốc gia bản xứ để làm giảm ảnh hưởng và thu hẹp khả năng kiểm soát của lực lượng Việt Minh; tǎng cường lực lượng trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ; tổ chức một hệ thống phòng ngự mới dựa vào những cứ điểm lớn và những binh đoàn ứng chiến (colonne) lớn; và tǎng cường phi cơ và trọng pháo để chống lại các cuộc tấn công của quân Việt Minh. Trong lúc đó, mở những cuộc càn quét liên tiếp vào vùng địch hậu, nhất là ở Nam Bộ để củng cố hậu phương.

Để lấy lại thế chủ động, Pháp tăng cường hệ thống phòng ngự đường thuộc địa số 4, khoá biên giới Việt- Trung nhằm cô lập căn cứ địa Việt Bắc với bên ngoài, thiết lập hành lang Đông- Tây với mục đích cô lập Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ, chuẩn bị lực lượng tấn công Việt Bắc lần 2 để tiêu diệt đầu não Việt Minh, lập ra hệ thống Liên khu Biên thùy.

Lực lượng Pháp chủ trương tiếp tục kiểm soát toàn tuyến từ Cao Bằng đến Móng Cái (suốt tuyến đường số 4). Khi tình hình chuyển biến xấu, quân Pháp ở Đông Dương rút bớt một số đơn vị nhỏ lẻ nhưng vẫn giữ vững các thị xã, thị trấn chiến lược như Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng và dọc tuyến Lạng Sơn - Tiên Yên - Móng Cái.

Về phía Việt Minh, tích cực thực hành hình thức chiến tranh '''Đại đội độc lập - Tiểu đoàn tập trung''' và trong tháng 2 năm 1950 đã đề ra chủ trương: Gấp rút hoàn thành việc chuẩn bị, giành thắng lợi lớn, làm chuyển biến chiến tranh có lợi, tiêu diệt cho được một phần quan trọng lực lượng địch, thu hẹp vùng kiểm soát của đối phương, tích cực ngăn ngừa và phá những cuộc càn quét, tiến tới giành chủ động về chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.

Bộ chỉ huy Việt Minh đã nhận định đúng ý đồ của Pháp, nhanh chóng vạch kế hoạch chủ động tấn công để khai thông con đường liên lạc quốc tế để nhận viện trợ từ Trung Quốc, Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Việt Minh có thể tiêu diệt một bộ phận sinh lực đối phương, mở rộng ảnh hưởng và củng cố địa bàn căn cứ địa Việt Bắc, tạo điều kiện đẩy mạnh công cuộc kháng chiến.

Để thực hiện chủ trương này, Việt Minh mở chiến dịch Lê Hồng Phong 1 với trọng điểm là khu vực Lào CaiBắc Hà nhưng kết quả rất hạn chế. Đầu tháng 7/1950, Bộ Tổng tư lệnh Việt Minh quyết định chuyển hướng chiến dịch sang Cao BằngLạng Sơn.